Đôi Dép Và Lời Phật Dạy Về Hạnh Phúc Đáng Suy Ngẫm (Phần 1)
Đôi Dép Và Lời Phật Dạy Về Hạnh Phúc Đáng Suy Ngẫm (Phần 1), 66716, Lavender Blog MuaBanNhanh
Đôi điều về đôi dép
Có một khoảng thời gian ở những ngôi chùa lớn, vào những ngày rằm hoặc ngày lễ hội của Phật và Bồ tát, khách thập phương hễ cứ mang dép mới đến chùa thì khi trở về phải đi chân không. Một số đạo chích thường khéo léo ăn mặc bảnh bao để người khác không chú ý và cảnh giác về họ. Họ cũng lên chính điện giả vờ lạy Phật như mọi người, nhưng khi xuống, nhìn thấy đôi dép nào mới, tốt nhất thì họ xỏ chân vào và mang về. Rủi ro lắm mới bị chủ nhân của nó phát hiện. Trong tình huống bị phát hiện thì lý do đưa ra rất đơn giản là “nhầm”, còn không ai thấy thì mang luôn. Cho nên đi chùa lễ Phật, thọ trì các khóa tu, chúng ta nên mang những loại dép thường để khi ra về còn được nguyên vẹn.
Không rời nửa bước
Khổ thứ nhất của bài thơ nói về sự gắn bó của đôi dép như sau:
“Hai chiếc dép kia gặp nhau tự bao giờ
Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nửa bước
Cùng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược
Lên thảm nhung, xuống cát bụi cùng nhau”
Sự mô tả này cho thấy việc đôi dép có mặt trên cuộc đời không phải do tự thân nó muốn, vì nó nào có ý thức đâu mà muốn. Những nhà sản xuất giày dép đã tính rất kỹ, nghĩ rất sâu rằng mỗi cặp đôi phải cùng một chiều kích, cùng kích thước, cùng màu sắc, hình thù, chỉ có khác nhau ở bên trái và bên phải. Cho nên sự gặp nhau của chúng là một tiến trình tình cờ, nhưng lại thể hiện ra đặc tính “không rời nhau nửa bước”. Có khi nào chúng ta chỉ mang dép một chiếc chưa?. Dĩ nhiên không ai mang một chiếc.
Trong nhà tổ các chùa Bắc tông chúng ta thấy tổ Bồ Đề Đạt Ma quảy một chiếc hài trên cây gậy và chiếc hài còn lại nằm trên mặt nước, lướt sóng qua bờ bên kia với ba chữ Tây Lai Ý. Đi sang Tây phương với ý nghĩa siêu vượt, giải thoát hết tất cả mọi chấp trước và những nỗi khổ niềm đau ở bờ bên này. Điều đó nói lên sự dấn thân trên con đường tâm linh đôi lúc là một sự độc hành:
“Đường độc lộ những dặm trình
Một mình cất bước một mình vân du
Hạ đông rồi lại xuân thu
Thế gian làm cảnh thái hư làm nhà”.
(Thích Nhật Từ)
Càng đi trên con đường tâm linh ở mức độ cao xa, thì chúng ta càng thấy nó mang hình kim tự tháp. Nó nhọn từ từ và đối tượng đạt được nó giảm tỷ lệ thuận. Nhưng đó không phải là trường hợp của đôi dép. Chức năng của đôi dép được tạo ra là để gánh vác và không rời nhau. Lúc thì đi lên trên thảm nhung để hưởng niềm vui, hạnh phúc, các giá trị được thăng hoa. Khi thì đi xuống cát bụi nhưng không vì thế mà ta bỏ chiếc này giữ chiếc nọ. Nó luôn đồng hành song đôi. Mô tả hiện thực đôi dép từ cái nhìn của Phật giáo như một đối tượng để quán chiếu, rằng đời sống vợ chồng được sánh ví như chiếc dép trái và chiếc dép phải sánh bước bên nhau trên mọi hướng của cuộc đời. Còn người xuất gia thì chỉ cần đi một chiếc như hình thái của tổ Bồ Đề Đạt Ma.
Bản chất của đời sống tại gia là hưởng phước báu do mình tạo từ trái tim, từ lòng từ bi, từ nhận thức của tuệ giác, và từ những phước nhân đã gieo trồng nhưng không nên đắm lụy vào nó. Đức Phật dạy rất nhiều bài kinh phân tích về tính đồng hành làm thế nào để cả hai được sống đến răng long tóc bạc trong chung thủy và hiểu biết thương yêu lẫn nhau.
Mô tả hiện thực nhằm giúp chúng ta có một cái nhìn quán chiếu mà bản chất của quán chiếu luôn diễn ra theo hai vế. Vế một, dựa vào một mô hình vật lý cụ thể. Vế thứ hai là nội dung tâm linh chúng ta có thể đạt từ sự quán chiếu này. Cho nên bằng cái nhìn quán chiếu thì những vật tầm thường như đôi dép lót đường, đảm bảo sự an toàn sức khỏe của bàn chân và cơ thể lại trở thành một triết lý để chúng ta nghiền ngẫm mà sống. Các tổ gọi tinh thần đó là “nhất thiết chư pháp vô phi Phật pháp”. Tất cả mọi sự vật hiện tượng từ cái nhìn tuệ giác đều trở thành phương tiện để chúng ta tuyên nhiệm pháp mầu.
Điều này được đức Phật nói trong kinh A Di Đà rằng, các hành giả Tịnh độ tông hãy quán chiếu gió thoảng mây bay, suối chảy thông reo, chim hót líu lo… đều là những phương tiện tuyên diễn pháp âm Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, .v.v... giúp hành giả nhiếp tâm tịnh thức trở về giác ngộ để hưởng được an lạc và hạnh phúc ngay hiện tại.
Những vị xuất gia theo đạo Phật, năm tháng đầu khi còn là chú tiểu hay cô tiểu trong chùa đều được hướng dẫn học các bài thi kệ nhật dụng vốn được trích từ kinh Hoa Nghiêm. Mỗi bài thi kệ chỉ có bốn hàng, mỗi hàng gồm năm chữ nhưng nó là một triết lý để hành trì. Uống nước phải quán tưởng; ăn cơm, mặc áo, mang dép, xuống giường, đi những bước đi đầu tiên, nói chung đi đứng nằm ngồi hầu như không có sự vận động nào của thân thể và tâm là không được làm chủ bởi các bài thi kệ quán chiếu. Quán chiếu giúp cho hành giả nhiếp chánh niệm vào từng động tác vận động của mình. Do đó các bước đi đứng nằm ngồi của những vị xuất gia thể hiện sự thư thái, thanh thoát nhờ vào chánh niệm thông qua các bài thi kệ.
Chúng ta thử thực tập quán tưởng đôi dép, chiếc áo, cái quần, và mọi thứ trong cuộc đời, hầu như không có cái gì không có chức năng, không có cái gì không thể tạo ra một đối tượng quán chiếu để đưa chúng ta vào đạo và sống với chất liệu đạo ở trong cuộc đời. Thiền tông Việt Nam gọi là “ở đời vui đạo”. Dữ liệu là cuộc đời nhưng nếu biết quán tưởng thì niềm hạnh phúc là với đạo. Còn ở đời mà vui đời tức là sự đắm nhiễm.
Bản chất của đôi dép tạo ra sự gắn bó liên hệ đến hai phương diện rất quan trọng đó là nghĩa vụ và quyền lợi. Nghĩa vụ của chúng là gì? “Chẳng rời nửa bước”. Hai bước đi, bước trước bước sau và nếu ta đo đường huyền của những bước đi này nó không rời quá một thước tây. Dù người phương Tây cao hơn hai mét, đi nhanh đi nữa thì khoảng cách của đôi dép này cũng chỉ trong khoảng đường kính tám tấc và nó đều đều với nhau. Cứ như thế, nó tạo ra đích điểm cuối cùng mà con người cần phải đến.
Đối với đời sống tại gia thì tình vợ nghĩa chồng được quan niệm như một đôi dép với quyền lợi và nghĩa vụ bình đẳng ngang nhau. Chồng đâu vợ đó, vợ đâu chồng đó. Hôm nào vợ hoặc chồng đi đâu mà không muốn người bạn đời của mình đi theo thì chúng ta biết có thể có vấn đề, ngoại trừ sự hờn dỗi giúp tình yêu được khắng khít và bền chặt hơn. Sự tách rời nửa bước bằng tâm thức giữa hai bên sẽ làm cho tình cảm bớt đi sự mặn nồng.
Sau thời gian chung sống, người nam bắt đầu có những thói quen mới, chẳng hạn cố trụ ở quán nhậu, quán bia ôm, nghiện không gian tấp nập ồn ào cùng bạn bè và cảm giác mỏi mệt mỗi khi phải về nhà. Thay vì dành thời gian cho vợ con thì họ dành thời gian cho riêng họ. Một chầu nhậu tốn vài ba triệu là chuyện bình thường, trong khi ở nhà, vợ con đói meo đôi lúc chẳng quan tâm.
Ở khổ thơ đầu, nếu dùng con mắt quán chiếu của nhà Phật, chúng ta sẽ có một tấm gương để soi lại chính mình xem mình đã chăm sóc người bạn đời chu đáo chưa, cuộc sống vợ chồng có khắng khít, lúc lên thảm nhung, khi xuống cát bụi cùng nhau chưa. Chỉ khi khổ đồng khổ, vui đồng chia mới tạo ra sự gắn bó.
(còn tiếp)
Theo: Suckhoecongdong
Lavender Chưa xác định sản phẩm bán chạy, tiêu điểm.